Hội thảo vật liệu xây dựng không nung tại Đà Nẵng
Theo thống kê của Bộ Xây dựng, để sản xuất 1 tỷ viên gạch đất sét nung có kích thước tiêu chuẩn sẽ tiêu tốn khoảng 1,5 triệu m3 đất sét, tương đương 75ha đất nông nghiệp, và 150.000 tấn than, thải ra khoảng 0,57 triệu tấn khí CO2, gây hiệu ứng nhà kính và các khí thải độc hại khác ô nhiễm môi trường. Vì thế, các giải pháp đầu tư, sản xuất và sử dụng vật liệu xây dựng (VLXD) không nung thay thế gạch đất sét nung tại Hội thảo quốc tế do Bộ Xây dựng, Hội VLXD, Viện VLXD phối hợp tổ chức tại Đà Nẵng ngày 11-5 được xem là một trong những bước đột phá mang tầm thế kỷ trong ngành Xây dựng.
Khai mạc Hội thảo, Tiến sĩ Trần Văn Huynh -
Chủ tịch Hội Xây dựng Việt Nam khẳng định: trong những năm qua, Việt Nam đạt nhiều thành tựu trên lĩnh vực sản xuất xi-măng, gạch, VLXD, gốm, sứ... Song theo các chuyên gia, nếu cứ kéo dài việc sản xuất các loại VLXD theo kiểu trước đây, trong tương lai không xa, Việt Nam sẽ bị mất đất canh tác, tiêu tốn hàng triệu tấn than mỗi năm, gây ô nhiễm môi trường trầm trọng.
Do đó, việc từng bước triển khai thay thế gạch đất sét nung bằng vật liệu xây không nung sẽ đem lại nhiều hiệu quả tích cực về kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường... Ngoài ra còn giúp tiêu thụ một phần đáng kể phế thải các ngành khác như: nhiệt điện, luyện kim, khai khoáng... góp phần tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, giảm chi phí xử lý phế thải, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Để thực hiện Quyết định 121/2008/QĐ-TTg ngày 29-8-2008 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách phát triển bền vững đối với ngành VLXD, Bộ Xây dựng đã xây dựng “
Chương trình phát triển VLXD không nung đến năm 2020” và vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Nội dung chương trình nêu rõ, sẽ có 3 chủng loại VLXD không nung được phát triển sản xuất và sử dụng gồm gạch xi-măng cốt liệu, gạch nhẹ và các loại gạch khác, trong đó, tỷ lệ gạch xi-măng cốt liệu trên tổng số vật liệu xây không nung khoảng 74% vào năm 2015 và 70% vào năm 2020. Gạch nhẹ chiếm tỷ lệ khoảng 21% vào năm 2015 và 25% vào năm 2020 trên tổng số vật liệu xây không nung. Gạch khác đạt tỷ lệ khoảng 5% từ năm 2015 trên tổng số vật liệu xây không nung.
Quang cảnh Hội thảo. Ảnh: H.H
Để thực hiện chương trình,
Chính phủ quy định, các dự án chế tạo thiết bị sản xuất vật liệu xây không nung nhẹ và sản xuất gạch xi-măng cốt liệu công suất từ 7 triệu viên/năm trở lên ngoài các chính sách ưu đãi về thuế nhập khẩu, thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi và hỗ trợ khác theo quy định hiện hành còn được hưởng ưu đãi như đối với các dự án thuộc chương trình cơ khí trọng điểm. Từ năm 2011, các công trình nhà cao tầng (từ 9 tầng trở lên) sử dụng tối thiểu 30% VLXD không nung loại nhẹ trong tổng số vật liệu xây...
Nội dung chủ yếu của Hội thảo nhằm công bố Quyết định của Thủ tướng phê duyệt Chương trình phát triển VLXD không nung và các bài giới thiệu của các diễn giả trong nước và quốc tế... Nhiều tham luận được trao đổi tại Hội thảo là cơ hội tốt cho các đại biểu cùng chia sẻ kinh nghiệm trong và ngoài nước về công nghệ, thiết bị mới sản xuất VLXD không nung như: bê-tông khí AAC, bê-tông bọt, các tấm thạch cao, vật liệu 3D, gạch không nung từ đất bằng polymer hóa và phế thải... Qua đó sẽ cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý, các nhà đầu tư, tư vấn nghiên cứu thiết kế và các nhà sản xuất những thông tin mới nhất về công nghệ cũng như thiết bị mới sản xuất VLXD không nung hướng tới sự phát triển bền vững của ngành VLXD.
VLXD không nung có rất nhiều ưu điểm: không dùng nguyên liệu đất sét để sản xuất (đất sét chủ yếu khai thác từ đất nông nghiệp, làm giảm diện tích sản xuất cây lương thực, đang là mối đe dọa mang tính toàn cầu hiện nay); không đốt bằng nhiên liệu từ than, củi... tiết kiệm nhiên liệu năng lượng và không thải khói bụi gây ô nhiễm môi trường; có thể tạo đa dạng loại hình sản phẩm, nhiều màu sắc, kích thước khác nhau, thích ứng tính đa dạng trong xây dựng; sản phẩm có tính chịu lực cao, cách âm, cách nhiệt tốt hơn vật liệu nung; cơ sở sản xuất có thể phát triển theo nhiều quy mô khác nhau, không bị khống chế nhiều về mặt bằng sản xuất; đầu tư thấp hơn vật liệu nung.
Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, Việt Nam chưa “mặn mà” lắm với loại sản phẩm này. Các nước phát triển hiện nay đã sản xuất vật liệu không nung chiếm hơn 70% sản lượng sản xuất hằng năm. Còn lại gần 30% vật liệu nung được chuyển đổi sang sản xuất chủ yếu cho vật liệu trang trí cao cấp. Ở nước ta, VLXD nung đang chiếm tỷ lệ hơn 93% còn
vật liệu không nung chỉ chiếm chưa đến 7% trong tổng sản lượng gạch ngói xây.
Như vậy VLXD không nung kém phát triển không những trong nước mà còn cách biệt quá xa so với các nước trong khu vực và thế giới. Có thể có nhiều nguyên nhân giải thích cho sự kém phát triển của vật liệu không nung ở nước ta. Điều quan trọng là chúng ta chưa có biện pháp và cơ chế chính sách làm thay đổi nhận thức về hiệu quả sử dụng vật liệu không nung vào xây dựng ở Việt Nam.
Trách nhiệm này thuộc về quản lý Nhà nước chuyên ngành xây dựng và chuyên ngành công nghiệp VLXD. Đã đến lúc sự phát triển VLXD không nung cần đồng bộ tháo gỡ và tạo điều kiện về cơ chế và tổ chức quản lý để phù hợp với xu thế phát triển, góp phần bảo đảm an ninh lương thực, bảo vệ môi trường, làm phong phú sản phẩm VLXD - đó cũng là mục đích mà Hội thảo quốc tế “Các giải pháp đầu tư, sản xuất và sử dụng VLXD không nung thay thế đất sét nung” lần này đang hướng tới.
Hoài Hương
Nguồn từ Web Công an TP, Đà Nẵng
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét